Ung thư, căn bệnh mà ai cũng sợ hãi, đã đứng đầu trong danh sách các nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở Đài Loan trong nhiều thập kỷ. Tỷ lệ mắc bệnh không có dấu hiệu chậm lại, và hiệu quả điều trị không khả quan. Tại sao điều này lại xảy ra? James Chen, một bác sĩ y học tự nhiên, đã bày tỏ quan điểm trong《Tái tạo ty thể, chữa bệnh mãn tính》.

article

Một thí nghiệm về tế bào ung thư lật đổ quan điểm

Đầu tiên, chúng ta cần định nghĩa tế bào ung thư là gì. Tế bào ung thư là những tế bào không kiểm soát được. Sự phát triển và phân chia của các tế bào bình thường được kiểm soát chặt chẽ, và chúng sẽ trải qua quá trình chết tế bào lập trình sau một thời gian nhất định; nhưng các tế bào ung thư tiếp tục sinh sản và phân chia, và không trải qua quá trình chết tế bào lập trình. Y học chính thống cho rằng điều này là do đột biến gen trong DNA của nhân tế bào gây ra.

Bây giờ, hãy xem một thí nghiệm có thể đảo ngược quan niệm trước đây. Trong một đĩa thí nghiệm, có hai tế bào: một là tế bào bình thường và một là tế bào ung thư. Nếu nhân của tế bào ung thư (chứa DNA đột biến) được tiêm vào trong số các tế bào bình thường, thì sau khi phân chia, tế bào bình thường đó sẽ trở thành tế bào ung thư hay tế bào bình thường?

Tôi nghĩ câu hỏi này không quá khó để suy luận. Nếu các tế bào ung thư là do đột biến DNA trong nhân tế bào, thì khi phân chia, chúng sẽ đương nhiên phân chia thành các tế bào ung thư.

Tuy nhiên, kết quả của thí nghiệm này đã gây bất ngờ: các tế bào chứa DNA đột biến thực sự phân chia thành các tế bào bình thường với sự tăng trưởng có kiểm soát. Nói cách khác, tế bào ung thư đã được chữa khỏi.

Làm sao có thể kỳ diệu như vậy? Giải thích điều này như thế nào? Y học chính thống đã luôn tin rằng ung thư là một bệnh di truyền, tức là đột biến gen trong DNA của nhân tế bào. Tuy nhiên, thí nghiệm này cho chúng ta biết rằng nếu tế bào chất là bình thường, ngay cả khi nhân tế bào bất thường, các tế bào mà nó phân chia vẫn sẽ bình thường và tăng trưởng được kiểm soát chặt chẽ. Ngược lại, nếu tế bào chất bất thường, bất kể nhân tế bào bình thường hay không, các tế bào mà nó phân chia sẽ bất thường và tăng trưởng không kiểm soát.

Tiến sĩ Thomas Seyfried đã lặp lại thí nghiệm này nhiều lần, chứng minh rằng yếu tố quyết định liệu một tế bào sẽ phân chia thành tế bào ung thư hay tế bào bình thường không phải là DNA trong nhân tế bào mà là ty thể trong tế bào chất. Nếu ty thể bình thường, tế bào cũng sẽ bình thường, ngay cả khi nhân tế bào có DNA đột biến; nó sẽ được sửa chữa.

Ung thư không phải là một bệnh di truyền mà là một bệnh chuyển hóa.

Nguyên nhân gốc rễ của ung thư là rối loạn chức năng ty thể, nói một cách chính xác hơn, là vấn đề với quá trình oxy hóa photphoryl hóa.

Trong các tế bào bình thường, glucose được chuyển hóa thành pyruvate trong tế bào chất (sản xuất ra hai ATP), sau đó pyruvate được vận chuyển vào ty thể để hô hấp hiếu khí tạo ra năng lượng (nếu mọi thứ diễn ra suôn sẻ, có thể lên đến 34 ATP).

Tuy nhiên, các tế bào ung thư thường lên men glucose thành axit lactic trong tế bào chất, ngay cả khi có oxy. Phương pháp chuyển hóa này được gọi là lên men hiếu khí hoặc đường phân hiếu khí. Con người sử dụng cơ chế này để ủ men làm rượu và lên men bột làm bánh mì.

Tại sao các tế bào ung thư lại sử dụng đường phân hiếu khí làm nguồn năng lượng? Lý do chính là tốc độ đường phân hiếu khí rất nhanh.

Các tế bào ung thư phát triển rất nhanh và cần nhiều năng lượng. Theo lý thuyết, hô hấp hiếu khí của ty thể có thể tạo ra 34 ATP, đây là một số lượng lớn năng lượng, nhưng tốc độ quá chậm, và ty thể trong các tế bào ung thư thường ở trạng thái mất cân bằng, dẫn đến sản xuất năng lượng từ glucose không nhiều.

Một khi ty thể bị tổn thương, các tế bào sẽ được kích thích để tiến hành đường phân hiếu khí, lên men glucose thành axit lactic ngoài ty thể, và các tế bào sẽ dần dần biến thành các tế bào ung thư.

article

Trên thực tế, từ năm 1927, Otto Warburg đã đề xuất rằng quá trình trao đổi chất của các tế bào ung thư khác với các tế bào bình thường, đặc biệt là tiêu thụ glucose nhiều hơn so với các tế bào bình thường. Hiện tượng này được gọi là 'hiệu ứng Warburg' là hiện tượng các tế bào ung thư có xu hướng lên men hiếu khí. Do đó, y học chính thống luôn tin rằng ung thư là một bệnh chuyển hóa. Cho đến những năm 1970, với sự ra đời của kỹ thuật di truyền, y học chính thống bắt đầu tin rằng ung thư là một bệnh di truyền.

Tiến sĩ Warburg không phải là người bình thường. Ông là nhà khoa học hàng đầu cùng thời với Einstein. Ông đã tiến hành nghiên cứu chuyên sâu về quá trình trao đổi chất của các tế bào ung thư và đã giành giải Nobel năm 1931. 【Đọc thêm: Những giai thoại nghiên cứu khoa học - Anh ta sống sót nhờ ung thư! Con cừu tế thế của lý thuyết cơ thể axit gây ung thư, Cuộc sống huyền thoại của một người đoạt giải Nobel

Warburg tin rằng nguồn năng lượng của các tế bào bình thường là hô hấp hiếu khí của ty thể, sản phẩm là khí carbon dioxide và nước; trong khi nguồn năng lượng cho sự phát triển của tế bào khối u là axit lactic được hình thành từ sự lên men của glucose trong tế bào chất.

Hiện tại, y học chính thống không chấp nhận lý thuyết chuyển hóa của Warburg và Seyfried, nhưng trường phái này đã đưa ra một số sự kiện khách quan buộc chúng ta phải xem xét những điểm sau:

1. Một số bệnh ung thư không liên quan đến đột biến gen.

2. Một số chất gây ung thư không gây đột biến gen trong nhân tế bào.

3. Các tế bào bình thường luôn trở thành ung thư, nhưng một số không tiến triển thành ung thư.

4. Người xưa và các bộ lạc nguyên thủy hiếm khi mắc bệnh ung thư.

5. Các thí nghiệm cấy ghép nhân tế bào và tế bào chất cho thấy tế bào chất có ảnh hưởng quyết định.

6. Bất kể có bao nhiêu bất thường di truyền trong nhân của các tế bào ung thư, ty thể bình thường có thể ức chế sự tăng trưởng của các tế bào mất kiểm soát.

7. Không có đột biến gen đơn lẻ nào phổ biến trong tất cả các bệnh ung thư.

8. Hơn 90% các bệnh ung thư có sự bất thường trong quá trình trao đổi chất.

Cuối cùng, ngày càng có nhiều thí nghiệm đã phát hiện ra rằng các chất chuyển hóa trong máu, nước bọt, nước tiểu và hơi thở như axetat, lactate, serine, sarcosine, asparagine hoặc choline có thể được sử dụng để phát hiện ung thư, nhưng không có xét nghiệm di truyền nào có thể xác nhận ung thư.

Ngoài ra, trong những năm qua, công nghệ đào tạo chó con để chẩn đoán ung thư đã ngày càng trở nên trưởng thành. Chó có thể được sử dụng để ngửi da, mùi, nước tiểu, máu và các dịch cơ thể khác của bệnh nhân ung thư, và có thể ngửi thấy ung thư da, ung thư trực tràng, ung thư phổi, ung thư buồng trứng, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư vú, v.v. Đặc biệt, ung thư vú, tỷ lệ chính xác lên đến 100%. Ngoài việc không xâm lấn và tiết kiệm, phương pháp này còn chứng minh rằng ung thư thực sự là một bệnh chuyển hóa và các tế bào ung thư thải ra. Chất chuyển hóa có mùi riêng của nó.

article

Ty thể của các tế bào ung thư bị hư hỏng

Nếu sử dụng kính hiển vi điện tử để quan sát tế bào ung thư, bạn sẽ thấy rằng ty thể trong tế bào ung thư đã bị hư hại. Nếu sử dụng xét nghiệm sinh hóa để phát hiện chức năng của ty thể trong tế bào ung thư, bạn cũng sẽ thấy rằng các chức năng bị hư hại.“Các 'dãy' trong ty thể chịu trách nhiệm về hô hấp, uốn cong và gợn sóng, tất cả đều lộn xộn và thiếu sót. Làm thế nào mà những tế bào ung thư bị hư hại này có thể cung cấp hô hấp hiếu khí hiệu quả và làm thế nào chúng có thể sửa chữa DNA trong nhân tế bào?【Khuyến nghị đọc: Trước khi ung thư và các bệnh mãn tính xảy ra, ty thể suy giảm trước! Bác sĩ James Chen đề xuất「Bài tập tăng cường ty thể tốt nhất」

Seyfried đã giải thích thêm rằng các bất thường khác nhau trong các tế bào ung thư là do ty thể bị ảnh hưởng bởi nhiều chất gây ung thư, bức xạ, ô nhiễm, viêm nhiễm, tuổi tác, vi rút, v.v. dẫn đến chức năng bị suy giảm và tạo ra một lượng lớn oxy hoạt động. Các gốc tự do, tiếp tục tấn công và làm hỏng nhân tế bào. Đột biến của các gen nhân của tế bào ung thư là kết quả của tổn thương ty thể, không phải là nguyên nhân gây ung thư. Mối quan hệ nhân quả này cần được làm rõ.

Các gốc tự do oxy hoạt động có thể làm hỏng protein và lipid. Sau khi được giải phóng khỏi ty thể, chúng sẽ đi vào nhân từ tế bào chất và làm hỏng DNA bên trong. Vì vậy, các đột biến gen hoặc gen ung thư mà chúng ta thấy là vấn đề hạ lưu, và vấn đề thượng nguồn là vấn đề trong ty thể. Hô hấp hiếu khí của ty thể không đủ trơn tru, rất có thể là do ty thể bị hư hại.

Seyfried cũng giải thích rằng lý do tại sao tế bào ung thư di căn là vì sau khi bị đại thực bào thực bào, ty thể bất thường bị nuốt và dung hợp vào đại thực bào. Đại thực bào đó biến thành tế bào ung thư và lây lan trong cơ thể. Lý giải này hoàn toàn phù hợp với tình trạng dị hợp ty thể (mitochondrial heteroplasmy), tức là chức năng ty thể trong một tế bào quyết định xem tế bào đó có bình thường hay không.

Tất cả các tế bào ung thư đặc biệt hấp thụ glucose. Đặc điểm này đã được y học chính thống công nhận và biết đến rộng rãi. Không chỉ vậy, y học chính thống còn tận dụng cơ chế này để phát triển phương pháp chụp cắt lớp phát xạ positron (PET), sử dụng glucose như một chất trung gian để chẩn đoán ung thư.

(Tham khảo nguồn: của Tiến sĩ James Chen 《Tái tạo ty thể và chữa bệnh mãn tính》, bài viết được trích đăng từ cancer.commonhealth.com.twNghiên cứu phát hiện ra ty thể của tế bào ung thư bị hư hỏng! Làm thế nào để sửa chữa ty thể một cách hiệu quả? Các chuyên gia có câu trả lời】, nội dung và tiêu đề đã được chỉnh sửa)